Từ Kia Sorento đến Fortuner và Pajero Sport, đến năm 2020, phân khúc xe cỡ D cao cấp đã chứng kiến nhiều đổi mới về sản phẩm. Mặc dù Sorento có kết cấu một mảnh dạng crossover phù hợp với mục đích sử dụng trong đô thị, nhưng Pajero Sport và Fortuner lại là khung một mảnh – khung gầm của một chiếc SUV thực thụ có thể bao quát nhiều địa hình hơn. Trong nhiều năm qua, Mitsubishi Pajero Sport mới luôn chật vật cạnh tranh với những người đồng hương, được tích hợp nhiều công nghệ và thiết kế sáng tạo.
Phiên bản mới của Fortuner và Pajero Sport lần thứ 3 ra mắt thị trường Việt Nam vào quý IV / 2020. Các mẫu xe Toyota lắp ráp, đối thủ nhập khẩu Thái Lan. Thiết kế
Pajero Sport: Ảnh: Lương Dũng
Fortuner mới có hai mặt ca-lăng khác nhau cho phiên bản Lender và phiên bản thường. Với Lệ Rơi, mặt tiền trở nên cứng cáp và thành thị hơn. Đồng thời, Pajero Sport mới thừa hưởng ngôn ngữ thiết kế Dynamic Shield phổ biến trên Xpander. Do hình dáng mới và cân đối hơn, cơ thể không còn đuôi ngắn. Fortuner có kích thước từng mm là 4.795 x 1.855 x 1.835mm và chiều dài cơ sở 2.745mm. Do đó, mô hình Mitsubishi nói chung dài hơn và chiều dài cơ sở, trong khi mô hình Ford rộng hơn.
Toyota Ford. Ảnh: TMV
Comfort
Toyota tập trung vào đường nét nội thất ghế tông đen sọc đỏ, thiết kế nằm ngang. Mặc dù Pajero Sport chú trọng hơn đến tiện nghi khi tích hợp cửa sổ trời, rửa đèn pha tự động hay phanh tay điện tử, hỗ trợ phanh gấp nhưng đối thủ thì không.
Mitsubishi sử dụng màn hình bảng điều khiển kỹ thuật số gọn gàng với ba tùy chọn hiển thị. Toyota sử dụng hai đồng hồ cơ và một màn hình TFT tích hợp giữ nguyên bảng đồng hồ hiển thị thông tin xe.
Nội thất của Pajero Sport. Ảnh: Lương Dũng
Hai bên đều sử dụng điều hòa tự động hai vùng. Ở phía sau, Fortuner đã làm một dãy hốc gió trên cao cho cả hai hàng ghế, trong khi Pajero Sport có hốc gió riêng cho hàng ghế thứ hai và thứ ba. Fortuner có 11 loa JBL, và đối thủ là 6 loa. Các trang bị khác cũng rất giống nhau như ghế chỉnh điện 8 hướng, lẫy chuyển số trên vô lăng, màn hình 8 inch kết nối Apple CarPlay và Android Auto, cốp điện thoại rảnh tay.
Cả hai đều hỗ trợ cổng sạc AC. Dòng xe SUV 220V của Toyota có công suất 100W, nhỏ hơn 150W so với dòng xe Mitsubishi.
Nội thất Fortuner. Ảnh: TMV-động cơ, hộp số-cặp đôi D-SUV thương hiệu Nhật Bản, trang bị động cơ diesel, dẫn động bốn bánh đến hai cầu. Fortuner 2.8 I4 có công suất 201 mã lực, mô-men xoắn cực đại 500 Nm, đi kèm hộp số tự động 6 cấp. Pajero Sport là động cơ 2.4 MIVEC công suất 181 mã lực và mô-men xoắn cực đại 430 Nm, kết hợp với hộp số tự động 8 cấp.
Ở phiên bản dẫn động 4 bánh hai cầu, cả hai mẫu SUV đều được trang bị núm xoay chỉnh cầu. Khả năng off-road của Pajero Sport thể hiện tốt nhất ở 4 chế độ 2H, 4H, 4HLc và 4LLc. Fortuner Leabol chỉ có ba chế độ: H2, H4 và L4.
Công nghệ vận hành và an toàn
Các chương trình truyền hình trực tiếp. Mặc dù thông số kỹ thuật thấp hơn, Pajero Sport có thể được cấu hình với các nút điều chỉnh ở tất cả các dải vòng / phút để phản ứng mượt mà và nhanh hơn. Dù tận dụng hết ga đầu nhưng Fortuner sẽ gặp chút khó khăn khi lái xe ở tốc độ khoảng 60 km / h trở lên ở vòng tua thấp và máy ổn định. Khi tăng tốc, Pajero Sport sẽ tạo ra âm thanh động cơ diesel độc đáo, còn các đối thủ cạnh tranh giống như động cơ xăng nên âm thanh êm ái hơn. Hệ thống treo của Fortuner rất mềm, phù hợp khi đi trong phố, nhưng hơi mềm ở tốc độ cao. Hệ thống treo của Pajero Sport có độ cứng vừa phải, có thể cân bằng giữa mặt đường và mặt đường.
Cả hai tay lái đều được trợ lực dầu như đèn của Pajero Sport, dù ở tốc độ thấp, lên đỉnh Everest cũng ít tốn điện hơn. Vô lăng của Fortuner thay đổi theo tốc độ và trở nên mềm mại khi đánh lái nhanh, tuy nhiên vô lăng ở tốc độ thấp hơi nặng.
Độ an toàn của Pajero Sport nhỉnh hơn Fortuner Leabol với gói hỗ trợ an toàn Mitsubishi e-Assist đầy đủ tính năng. Một số công nghệ mà Fortuner không có như cảnh báo phương tiện cắt ngang khi lùi, cảnh báo điểm mù và những pha tăng tốc không cần thiết. Fortuner đưa ra cảnh báo chệch làn đường còn đối thủ không tích hợp cảnh báo.
Giá bán
Mẫu SUV của Toyota là Fortuner phiên bản 2.8 AT 4X4, có giá bán 1,426 tỷ đô la Mỹ. Đối thủ của gia đình Mitsubishi là 4X4 AT, giá 1,345 tỷ đô la Mỹ, rẻ hơn 81 triệu đô la Mỹ